Công bố đơn vị kiểm toán năm 2013
Công bố Kế hoạch sản xuất kinh doanh tài chính năm 2013 điều chỉnh
Công bố Báo cáo tình hình quản trị 6 tháng đầu năm 2013
Đã Online : 1182823 lượt
Phần I: Các nguyên nhân gây thất thoát và thất thu nước:
Các nguyên nhân gây thất thoát và thất thu nước chia làm hai loại: Thất thoát cơ học và thất thoát, thất thu do quản lý
1/ Thất thoát cơ học:
- Khâu sản xuất (trạm xử lý):
Tỷ lệ lượng nước xử lý so với công suất thiết kế được coi là những thất thoát cơ học, bao gồm:
Nước xả cặn các bể lắng, rửa giàn mưa
Nước rửa cặn các bể lọc: phụ thuộc vào kỹ thuật rửa, kiểu rửa, trang thiết bị phục vụ việc rửa bể,….
Rò rỉ qua các van trong suốt quá trình làm việc của trạm: phụ thuộc vào chất lượng của các van lắp đặt trong trạm.
Thất thoát liên quan đến các yếu tố kỹ thuật và quản lý
Tổng cộng lượng nước tổn thất trong trạm xử lý và dùng cho bản thân trạm cấp nước thường là 6 đến 10% công suất của trạm. Những trạm cấp nước có thiết bị không đồng bộ, vận hành bằng tay và chất lượng các thiết bị van khó không cao thì tỷ lệ thất thoát có thể lớn hơn 10%
- Do mạng lưới đường ống:
Mạng lưới đường ống cũ nát do sử dụng quá lâu và do chất lượng của ống có thể gây rò rỉ trên mạng lưới đường ống.
- Rò rỉ tại các khớp nối, phụ tùng nối:
Mạng lưới đường ống trước đây thường là ống gang xám nối bằng phương pháp xảm sợi đay tẩm bitum bên ngoài trát vữa ximăng. Sau nhiều năm sử dụng các sợi đay bị mục nát. Mặt khác các đường ống thường được bố trí dọc theo các tuyến đường giao thông, xe cộ đi lại gây rạn nứt và biến dạng các mối nối. Ngoài ra còn kể đến việc xây dựng các công trình gần đường ống, không tuân thủ khoảng cách theo quy định, gây lún và làm chuyển vị các mối nối. Lượng nước rò rỉ qua các mối nối, phụ tùng nối chiếm tỷ lệ khá lớn trong toàn bộ lượng nước thất thoát.
- Rò rỉ tại các van điều tiết của mạng lưới:
Mạng lưới đường ống cấp nước được chia thành ba cấp. Mạng cấp I làm nhiệm vụ truyền dẫn, mạng cấp II làm nhiệm vụ phân phối và mạng cấp III là các đường ống đáu nối vào nhà. Theo nguyên tắc, không cho phép các hộ tiêu dùng đấu nối với mạng cấp I và cấp II. Nhưng do cấu tạo mạng lưới có những phần không có mạng cấp II, mạng cấp III đấu nối với mạng cấp I hoặc thậm chí hộ tiêu dùng đấu nối trực tiếp với mạng cấp I. Mặt khác việc đấu nối không được dự kiến và thiết kế trước, không lắp đặt bằng các phụ tùng nối và đai khởi thủy chuyên dùng (loại đai chuyên dùng cho các loại đường kính lớn không có hoặc rất hiếm) mà dùng các đai gia công. Việc gia công các đai khởi thủy không chính xác cộng với việc dùng vật liệu không đúng quy chuẩn ( như dùng dép xốp thay cho cao su để làm gioăng) sau một thời gian sử dụng có thể gây rò rỉ. Tại các đường ống cấp I và cấp II, áp lực còn khá lớn nếu có nhiều đai khởi thủy không đúng tiêu chuẩn như trên sẽ gây nên thất thoái nước rất lớn. Các điểm đấu nối kiểu này, đục nát đường ống gây thất thoát lớn và mất áp cho mạng lưới. Có tồn tại trên có thể do ảnh hưởng của thời “bao cấp”, mạng lưới đường ống không đáp ứng kịp vơi sự phát triển của các khu dân cư trong quá trình đô thị hóa. Chẳng hạn như những khu vực có mạng cấp I đi qua, dân cư chưa phát triển nên chưa đầu tư lắp đặt mạng cấp II nhưng có một vài hộ tiêu dung có nhu cầu cấp nước có thể đã được đáp ứng bằng cách cho đấu nối trực tiếp với đường ống truyền dẫn. Những tồn tại như trên gây thất thoát nước rất lớn và cần phải được giải quyết khi cải tạo mạng lưới.
LoanNT-NRW